Chả Rươi Quảng Ninh

 Nói các cụ thứ lỗi, ngày còn trẻ trâu, lần đầu được thưởng thức món này em cũng ghê ghê. Đó là một lần em ra Đông Triều chơi với đám bạn, chúng nó mua về chiêu đãi. Nhìn những con rươi nửa như giun, nửa như rết, con thì lờ đờ, con thì ngoe nguẩy mà phát ớn. Cơ mà nhẽ chúng nó bảo đặc sản mà mình lại chê? Khi chúng nó gắp mời em nghĩ chiêu ngụm rượu to chắc ổn, dù sao nó ăn được thì mình cũng không chết đâu mà sợ. Nhưng, đời ác ở chữ nhưng, ngay sau miếng đầu tiên em đã phải đổi ý ngay lập tức, còn giờ nhẽ như con nghiện ấy.

Nguyên liệu cho món chả rươi

Chả rươi được chế biến với nguyên liệu chính là Rươi, Trứng và Thịt băm, gia vị có Hành, Thì là, Gừng và không thể thiếu Vỏ Quýt. Lá Chanh có tầm quan trọng với thịt gà bao nhiêu thì Vỏ Quýt với Chả Rươi cũng vậy, nó quyết định rất nhiều đến hương vị của món này.

Rươi và trứng, chuẩn bị nào!

Rươi được đánh với trứng (có thể là trứng gà hoặc trứng vịt, nhưng trúng vịt sẽ làm cho chả dai hơn và vị cũng hợp lý hơn trúng gà) và thịt nạc băm (ngon nhất là dùng nạc vai), tiếp đến hành, thì là (có người cho rau mùi, nhưng cá nhân em thấy thì là ngon hơn, mùi chỉ trang trí và ăn sống cùng là hợp lý) và gừng, vỏ quýt thái chỉ được đánh cùng và cho vào chảo rán.

Thành phẩm, thiếu chai nút lá chuổi

Dốt văn nên em không tả được hết vị ngon của món này khi nhắm rượu, mong các cụ thông cảm và nếu có dịp các cụ nên thử một lần để khẳng định em không nói sai. Món này thì vùng nào có cửa sông đổ ra biển thì đầu có, từ Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định em đều đã gặp (mạn miền Trung đổ vào em chưa có dịp đi) mùa rươi thường bắt đầu khoảng cuối thu đầu đông và không kéo dài.

Đặc sản trái mùa nên em chôm ảnh trên mạng, mong các cụ lượng thứ!

Cúc hoa trà


Tương truyền Trà hoa cúc có từ thời nhà Tống, là loại nước làm từ hoa Cúc trắng (Bạch cúc, Chrysanthemum morifolium) hoặc Cúc vàng (Kim cúc, Chrysanthemum indicum). Dùng nước sôi để pha hoa cúc khô hoặc tươi thành trà. Nước trà trong suốt và có màu từ vàng nhạt đến vàng tươi. Mỗi khi uống xong một ấm trà thì người ta lại thêm nước nóng (trà lần sau nhạt hơn trà lần trước), cứ thế lặp lại vài lần.

Trà hoa cúc có một số biến thể làm từ các loại cúc trồng ở những vùng khác nhau. Trung Quốc có Tứ đại danh cúc (四大名菊) là Cống cúc, Hàng cúc, Trừ cúc và Bạc cúc:

Cống cúc, tên đầy đủ là Hoàng Sơn cống cúc (黄山贡菊, tạm dịch là cúc cống từ Hoàng Sơn). Cúc trồng ở Hoàng Sơn được dược điển Trung Quốc xem là loại cây quý của dân tộc.

Hàng cúc, tên đầy đủ là Hàng bạch cúc (杭白菊, tạm dịch là cúc trắng Hàng Châu). Hàng bạch cúc là loại hàng xuất khẩu truyền thống nổi tiếng của Trung Quốc, được cho là có công hiệu đặc biệt đối với sức khoẻ. Hàng cúc được sách Thần Nông bản thảo kinh xem là hàng thượng phẩm, có lợi cho khí huyết; được sách Bản thảo cương mục thập di mô tả là có vị hơi lạnh, hơi ngọt, có nhiều thành phần ích lợi cho cơ thể, có tác dụng thông phế khí, chỉ khái nghịch...

Trừ cúc (滁菊), Trừ chỉ Trừ Châu, tỉnh An Huy. Đây là sản phẩm truyền thống của Trừ Châu, thành phần chứa nhiều vitamin, axit amin, có tác dụng thanh nhiệt, sáng mắt, giải độc.

Bạc cúc (亳菊), Bạc chỉ Bạc Châu, tỉnh An Huy.

Đông y, trà hoa cúc có khả năng làm sạch gan (thanh can) và sáng mắt (minh mục). Gan gắn với hành Mộc điều khiển mắt, gắn liền với sự bực dọc và căng thẳng (can chủ nộ). Trà hoa cúc có tác dụng chữa đau mắt do căng thẳng hoặc do mất cân bằng âm (thiếu nước). Trà cũng được dùng để chữa chứng mắt nhìn mờ hay nhìn thấy đốm, suy giảm thị lực hoặc hoa mắt chóng mặt, chữa đau họng, hạ sốt, giảm mụn do có tính mát. Trà hoa cúc dùng uốngcó thể chữa suy giãn tĩnh mạch chân hoặc xơ vữa động mạch, giảm mỡ máu.

Trà hoa cúc còn có tác dụng hạ huyết áp, vậy nên những người huyết áp thấp không nên dùng trà này thường xuyên. Để tăng cường tác dụng của trà hoa cúc, có thể cho thêm Kỷ tử, Thảo quyết minh (trà Cúc Kỷ) mỗi vị có lượng bằng nhau với Cúc hoa, được cho là có tác dụng giảm tác dụng hạ huyết áp của Cúc hoa và có thể cho thêm vào mỗi ấm (hoặc ly) trà Cúc một quả Đại táo (dùng để bình huyết áp).

Cúc hoa tửu

Tác dụng của Cúc hoa

Theo Đông y Cúc nói chung tính vị ngọt cay, vào 3 kinh phế can thận; có tác dụng dưỡng âm, ích can, tán phong thấp, thanh đầu mục, giáng hoả, giải độc. Cúc trắng vị ngọt nhiều hơn đắng, tính hơi hàn, thiên về khí phế. Cúc vàng vị cay đắng nhiều hơn, ngọt tính, hơi ôn thiên về can huyết.

Dược tính của Cúc hoa là do hấp thụ được “khí thu”, “sương thu”, “tiết thu” mới có, do đó Cúc hoa để làm thuốc không thể trồng hái tuỳ tiện vào mùa khác được, cũng không thể thay thế các vị Thu cúc bằng các loại dược Cúc khác.

Rượu Cúc Hoa:

Dùng hoa Cúc tháng 8,9, nấu lấy nước cốt để nấu cơm nếp làm rượu. Cất rượu vào bình kín dùng dần; muốn tốt hơn thì trong nước nấu cơm nên gia thêm nước cốt Sinh điạ, Đương quy, Câu kỷ tử, và một số vị thuốc bổ khác thì công hiệu càng cao. Chữa được những chứng đầu phong, đau nhức, chóng mặt tối sầm; nó còn có thể làm cho đầu óc sáng suốt, mắt tinh, tai tỏ, chữa các chứng tê bại và một số chứng bệnh của tuổi già: thân thể gày còm ốm yếu, chảy nước mắt sống, nhiều dử, mắt kéo màng rộng; nó còn làm cho sức lực dồi dào, ăn ngon ngủ dễ, chống lại bệnh xơ vữa động mạch, các chứng bệnh mạch vành.

Rượu Tứ quý Cúc hoa:

Được chế biến công phu với nguyên liệu được thu hái trong cả một năm: Ngọn cúc mùa xuân, lá cúc mùa hạ, hoa cúc mùa thu và rễ cúc mùa đông. Các vị trên được thu hái vào các thời điểm trong cả 4 mùa, phơi khô trong bóng râm, tránh nắng trực tiếp, không được hong, sấy quá nóng (Cúc kỵ lửa) và khi đủ vị thì sắc lấy nước, dùng nước đó để nấu rượu như rượu Cúc hoa.

Sơ lược về rượu vang

Rượu vang (từ tiếng Pháp vin) là một loại thức uống có cồn được lên men từ nước nho. Rượu vang đỏ thường được lên men từ nước ép và vỏ quả nho, còn rượu vang trắng được lên men chỉ từ nước nho.
Nước từ các hoa quả khác có thể được lên men tạo thành rượu, nhưng theo luật nhiều nước, từ "rượu vang" (ở ngôn ngữ tương ứng) cho mục đích thương mại chỉ được sử dụng cho rượu lên men từ nho.

Vài bài rượu độc vị

❖ Rượu hoàng tinh:
Hoàng tinh 20 g, rượu trắng 500 ml.Hoàng tinh rửa sạch, thái phiến, cho vào túi vải buộc kín rồi thả ngâm trong rượu, sau nửa tháng có thể dùng được.

❖ Rượu vừng đen:
Vừng đen 50 g, rượu trắng 500 ml.
Vừng đen đãi sạch, để khô rồi ngâm với rượu trong bình kín, sau nửa tháng thì dùng được.
Công dụng: Bồi bổ can thận, nhuận dưỡng tỳ phế, nâng cao sức khỏe và chống lão hóa; thích hợp cho những người bị chứng can thận phế âm hư, biểu hiện bằng các triệu chứng hay đau đầu, hoa mắt chóng mặt, lưng đau gối mỏi, râu tóc bạc sớm, ho khan ít đờm, đại tiện táo kết. Trường hợp đại tiện lỏng loãng không nên dùng.
❖ Rượu liên tử:
Hạt sen 50 g, rượu trắng 500 ml.
Hạt sen bỏ vỏ và tâm, đập vụn rồi đem ngâm với rượu trong bình kín, sau nửa tháng thì dùng được.
Công dụng: Dưỡng tâm an thần, kiện tỳ chỉ tả, ích thận chỉ di; thích hợp cho những người bị mất ngủ, hay hồi hộp đánh trống ngực, di tinh, đái dầm, xuất tinh sớm, phụ nữ bị khí hư, đi lỏng do tỳ vị hư yếu. Trường hợp đại tiện táo kết không nên dùng.
❖ Rượu nhân sâm kỷ tử:
Nhân sâm 10 g, Kỷ tử 20 g, rượu trắng 500 ml.
Nhân sâm thái phiến, kỷ tử rửa sạch, cho vào bình kín ngâm với rượu, sau nửa tháng có thể dùng được.
Công dụng: Đại bổ nguyên khí, dưỡng can và làm sáng mắt; thích hợp cho những người bị chứng khí hư với những biểu hiện cụ thể như khó thở, ngại nói, dễ đổ mồ hôi (phế khí hư); chán ăn, chậm tiêu, da nhợt, tay chân teo nhẽo, sa dạ dày, sa trực tràng (tỳ khí hư); lưng đau gối mỏi, tiểu tiện nhiều lần về đêm, khả năng tình dục sút kém (thận khí hư); hay hồi hộp đánh trống ngực, mất ngủ, môi nhợt (tâm khí hư)...
❖ Rượu hà thủ ô:
Hà thủ ô 150 g, rượu trắng 500 ml.
Hà thủ ô rửa sạch, thái vụn, ngâm với rượu trong bình kín, sau 15-20 ngày có thể dùng được.
Công dụng: Bổ thận ích tinh, tư âm dưỡng huyết, chống lão hóa; thích hợp cho người bị chứng can thận bất túc, biểu hiện bằng các dấu hiệu đầu choáng, tai ù, mất ngủ, hay quên, râu tóc bạc sớm, di tinh, liệt dương (trong y học hiện đại là các bệnh suy nhược thần kinh, thiếu máu, xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, táo bón kinh niên...).
❖ Rượu dâu:
Quả dâu chín 200 g, rượu trắng 500 ml.
Hai thứ ngâm trong bình kín, sau nửa tháng có thể dùng được.
Công dụng: Thanh nhiệt, nhuận phế, tư âm, dưỡng huyết; thích hợp cho những người âm hư, biểu hiện bằng các triệu chứng môi khô miệng khát, có cảm giác hâm hấp sốt về chiều, lòng bàn tay bàn chân nóng, ho khan, hay ra mồ hôi trộm, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ.
* Kinh nghiệm thực tế: Có thể ngâm dâu với đường chế thành siro dâu rồi pha rượu cũng được và ngon hơn nhiều.

❖ Rượu tây dương sâm:
Tây dương sâm 50 g, rượu trắng 500 ml.
Tây dương sâm thái phiến, ngâm với rượu trong bình kín, sau nửa tháng có thể dùng được.
Công dụng: Bổ khí dưỡng âm, thanh nhiệt; thích hợp cho những người khí âm lưỡng hư, biểu hiện bằng các triệu chứng mệt mỏi, khó thở, miệng khô, họng khô, ho khan, hay có cảm giác hơi sốt về chiều, đổ mồ hôi trộm. Trường hợp đau bụng và đi lỏng do lạnh không nên dùng.

Lưu ý: nên dùng rượu trắng có nồng độ từ 30-35%, nồng độ rượu cao làm cháy tinh dầu trong các vị thuốc, gây mùi khét khó uống và giảm hiểu quả rất nhiều.